Giảng dạy Śīlabhadra

Theo dịch giả người Ấn Độ Divākara, Śīlabhadra đã chia giáo lý Phật giáo thành ba lần chuyển Pháp luân, theo sự phân chia được đưa ra trong Saṃdhinirmocana Sūtra: [10]

  1. Trong lần chuyển luân đầu tiên, Đức Phật dạy Tứ diệu đế tại Vārāṇasī cho những người trong hàng Thanh văn thừa.[11] Giáo lý về lần chuyển luân đầu tiên được minh họa trong Kinh Chuyển pháp luân (Pravartana Sūtra), tiêu biểu cho giai đoạn sớm nhất của giáo lý Phật giáo và thời kỳ sớm nhất trong lịch sử Phật giáo.
  2. Trong lần chuyển luân thứ hai, Đức Phật dạy giáo lý Đại thừa cho chư vị Bồ tát (Bồ tát thừa).[11] Giáo lý về lần chuyển luân thứ hai được thiết lập trong giáo lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa, được viết lần đầu tiên vào khoảng năm 100 TCN. Trong các trường phái triết học Ấn Độ, nó được minh họa bởi trường phái Trung quán tông của Long Thụ.
  3. Trong lần chuyển luân thứ ba, Đức Phật dạy những giáo lý tương tự như lần chuyển luân thứ hai, nhưng cho tất cả mọi người trong ba thừa, bao gồm tất cả Thanh văn, Duyên giácBồ tát. Đây là những giáo lý hoàn toàn rõ ràng chi tiết, không cần phải giải thích và không gây nên tranh cãi như 2 lần chuyển luân trước.[11] Những giáo lý này được thành lập bởi Giải thâm mật kinh (Saṃdhinirmocana Sūtra) ngay từ thế kỷ thứ 1 hoặc thứ 2 sau Công nguyên.[12] Trong các trường phái triết học Ấn Độ, lần chuyển thứ ba được minh họa bởi trường phái Yogācāra của AsaṅgaVasubandhu.

Śīlabhadra coi những giáo lý từ lần chuyển luân thứ ba (Yogācāra) là hình thức cao nhất của Phật giáo, bởi vì nó giải thích đầy đủ ba bản chất, nhưng đại sư Jñānaprabha của Mādhyamaka đã phản đối ý kiến này một cách đáng chú ý.[10] Thay vào đó, Jñānaprabha coi các giáo lý Du già hành tông thấp hơn Trung quán luận, bởi vì chúng (được cho là) thừa nhận sự tồn tại thực sự của một tâm thức.[10]

Śīlabhadra đã sáng tác văn bản Buddhabhūmivyākhyāna, hiện chỉ còn tồn tại phiên bản bằng tiếng Tây Tạng.[1]